Tổng quan
Báo cáo này là một phần của dự án AWEEV (Nâng cao Năng lực Kinh tế của Phụ nữ tại Việt Nam) do CARE tại Việt Nam triển khai, được tài trợ bởi Global Affairs Canada, nhằm nâng cao khả năng tham gia kinh tế công bằng của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của công việc chăm sóc không được trả công (UCDW) đến khả năng tham gia lao động có trả công của phụ nữ, cũng như cơ hội tạo thu nhập. Báo cáo làm rõ những bất bình đẳng có hệ thống bắt nguồn từ các chuẩn mực xã hội kéo dài, vốn mặc định phụ nữ là người gánh vác phần lớn công việc chăm sóc và nội trợ.
Dựa trên dữ liệu từ Khảo sát Lực lượng Lao động năm 2020 và các nguồn thứ cấp như nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Ngân hàng Thế giới, báo cáo cung cấp cái nhìn toàn diện về khoảng cách phân bổ thời gian giữa nam và nữ, đặc biệt ở các khu vực dân tộc thiểu số. Kết quả cho thấy phụ nữ dành gần gấp đôi thời gian cho công việc chăm sóc không lương so với nam giới, và khoảng cách này còn lớn hơn ở các cộng đồng dân tộc thiểu số. Khối lượng công việc này đã hạn chế đáng kể khả năng tiếp cận việc làm chất lượng và phát triển nghề nghiệp của phụ nữ.
Báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị chính sách dựa trên bằng chứng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng trong phân bổ công việc chăm sóc, như mở rộng dịch vụ chăm sóc, thúc đẩy chia sẻ trách nhiệm chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình, và lồng ghép quan điểm nhạy cảm với công việc chăm sóc vào các kế hoạch phát triển cấp quốc gia và địa phương.
Các phát hiện chính:
- Trung bình mỗi tuần, phụ nữ ở Việt Nam dành 20,1 giờ cho công việc chăm sóc và việc nhà không lương, trong khi nam giới chỉ dành 10,7 giờ.
- Ở các vùng dân tộc thiểu số, khoảng cách này còn lớn hơn đáng kể.
- Gánh nặng công việc không lương này làm hạn chế sự tham gia của phụ nữ vào công việc có trả công và cản trở cơ hội phát triển kinh tế.
- Các chuẩn mực xã hội mặc định phụ nữ là người đảm nhận vai trò chăm sóc, gây cản trở về thời gian và di chuyển.
- Thiếu cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc chăm sóc (như nhà trẻ, nước sạch, chăm sóc người già) làm gia tăng khối lượng việc nhà của phụ nữ.
- Giảm thiểu sự mất cân bằng này là yếu tố then chốt để thúc đẩy phát triển toàn diện và bền vững.
Khuyến nghị chính sách:
- Ghi nhận công việc chăm sóc và việc nhà không lương trong thống kê và quy hoạch phát triển.
- Mở rộng các dịch vụ chăm sóc cộng đồng (như lớp mẫu giáo, trạm cấp nước).
- Thúc đẩy chia sẻ trách nhiệm chăm sóc trong gia đình và cộng đồng.
- Tập huấn cho chính quyền địa phương và cộng đồng về tác động kinh tế của công việc chăm sóc không lương.
- Lồng ghép nội dung liên quan đến công việc chăm sóc vào các chương trình giảm nghèo và phát triển dân tộc thiểu số.
Tại Việt Nam, mặc dù khoảng cách chung về việc làm đã được thu hẹp trong giai đoạn 2010 – 2020, sự chênh lệch trong tiếp cận việc làm chất lượng và cơ hội phát triển nghề nghiệp vẫn còn rõ rệt. Những người gánh vác nhiều trách nhiệm chăm sóc và việc nhà, phần lớn là phụ nữ thường làm việc trong khu vực phi chính thức hoặc có thu nhập thấp hơn dù cùng công việc. Nguyên nhân không hẳn đến từ trình độ hay số giờ làm việc, mà phần lớn xuất phát từ khối lượng công việc chăm sóc và việc nhà không lương cao hơn đáng kể.
Theo Khảo sát Lực lượng Lao động năm 2020, những người đảm nhận chính công việc chăm sóc và việc nhà không lương trung bình dành 20,1 giờ mỗi tuần cho loại công việc này – gần gấp đôi so với người khác (10,7 giờ/tuần). Ở các cộng đồng dân tộc thiểu số, khoảng cách này còn lớn hơn, trở thành rào cản đáng kể trong việc tiếp cận cơ hội kinh tế. Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng gánh nặng việc nhà là yếu tố chính kìm hãm sự tham gia của phụ nữ dân tộc vào các hoạt động tạo thu nhập ngoài nông nghiệp. Những vai trò xã hội truyền thống làm giảm khả năng di chuyển và ảnh hưởng đến quyền ra quyết định trong hoạt động kinh tế.
Báo cáo nhấn mạnh rằng sự phân bổ không đồng đều trong công việc nhà và chăm sóc là nguyên nhân góp phần làm gia tăng khoảng cách thu nhập và chất lượng sống ở các vùng dân tộc thiểu số. Cần có chính sách công nhận, giảm thiểu và phân chia lại trách nhiệm chăm sóc thông qua cung cấp dịch vụ, hạ tầng, và nâng cao nhận thức về việc chia sẻ công việc trong gia đình và cộng đồng.