Tổng quan
Báo cáo “Giảm bất bình đẳng giới trong công việc chăm sóc không lương và việc nhà ở Việt Nam: Trường hợp của các nhóm dân tộc thiểu số,” là sản phẩm nghiên cứu hợp tác giữa Trung tâm Phân tích và Dự báo (CAF) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) và CARE Việt Nam, được tài trợ bởi Global Affairs Canada thông qua Dự án Nâng cao Năng lực Kinh tế của Phụ nữ tại Việt Nam (AWEEV). Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 10 năm 2021, nhằm giải quyết sự thiếu hụt bằng chứng thực nghiệm đại diện cấp quốc gia về công việc chăm sóc không lương và việc nhà (CVCSKĐTC), đặc biệt là trong các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Phạm vi công việc bao gồm cách tiếp cận định lượng và định tính kết hợp. Điều này bao gồm phân tích định lượng CVCSKĐTC dựa trên bộ dữ liệu Khảo sát Lao động (LFS) năm 2020 và khảo sát qua điện thoại được thực hiện vào năm 2021. Khảo sát qua điện thoại đã phỏng vấn 1.000 hộ gia đình dân tộc thiểu số trên khắp 63 tỉnh thành của Việt Nam, mang lại kết quả đại diện cấp quốc gia cho Việt Nam nói chung và cho các nhóm dân tộc thiểu số nói riêng.
Các phát hiện chính chỉ ra sự khác biệt đáng kể trong CVCSKĐTC. Những cá nhân được xác định là nữ giới đóng vai trò chủ yếu trong việc chăm sóc tại nhà và dành thời gian làm CVCSKĐTC mỗi tuần nhiều hơn đáng kể so với những cá nhân được xác định là nam giới. Ví dụ, sự khác biệt về thời gian dành cho công việc nhà là 15,5 điểm phần trăm, với 93,2% cá nhân được xác định là nữ giới làm công việc nhà so với 77,8% cá nhân được xác định là nam giới CVCSKĐTC hạn chế sự tham gia và di chuyển trong lực lượng lao động, ảnh hưởng không cân xứng đến những cá nhân được xác định là nữ giới và những hộ gia đình nghèo. Các chuẩn mực xã hội đóng một vai trò quan trọng, với hơn hai phần ba số người được hỏi tin rằng những cá nhân được xác định là nữ giới làm nhiều CVCSKĐTC hơn vì nó phù hợp với khả năng của họ. Việc ra quyết định liên quan đến CVCSKĐTC trong các hộ gia đình có phần chênh lệch, mặc dù các quyết định chung của các cặp vợ chồng là phổ biến.
Các dịch vụ xã hội, yếu tố quan trọng để chuyển gánh nặng CVCSKĐTC từ gia đình sang nhà nước, thường bị hạn chế ở các khu vực dân tộc thiểu số và ít được sử dụng. Ví dụ, sự sẵn có của các dịch vụ chăm sóc trẻ em rất khác nhau, và các dịch vụ thiết yếu như viện dưỡng lão, trung tâm người khuyết tật và trung tâm giới thiệu việc làm cho những cá nhân được xác định là nữ giới đang thiếu hụt. Dựa trên những phát hiện này, báo cáo đưa ra các khuyến nghị chính sách để giảm bớt sự khác biệt này thông qua việc cải thiện xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng, giải quyết các chuẩn mực xã hội có hại, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội, và nâng cao các chính sách an sinh xã hội và lao động.
Các phát hiện chính:
- Phân công lao động đảm nhiệm CVCSKĐTC: Các cá nhân được xác định là nữ giới dành nhiều thời gian và công sức hơn đáng kể cho công việc chăm sóc không lương và việc nhà (CVCSKĐTC) so với các cá nhân được xác định là nam giới, dẫn đến sự chênh lệch lớn về số giờ và loại công việc được thực hiện.
- Tác động đến sự tham gia lao động: Gánh nặng CVCSKĐTC hạn chế sự tham gia và di chuyển trong lực lượng lao động, đặc biệt đối với những cá nhân được xác định là nữ giới và những hộ gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Ảnh hưởng của các chuẩn mực xã hội: Các chuẩn mực xã hội hiện hành củng cố sự phân bổ CVCSKĐTC không đồng đều, với phần lớn những người được hỏi tin rằng CVCSKĐTC vốn dĩ phù hợp với những cá nhân được xác định là nữ giới.
- Ra quyết định trong hộ gia đình: Mặc dù việc ra quyết định chung về CVCSKĐTC giữa các cặp vợ chồng là phổ biến, nhưng có một sự mất cân bằng nhỏ, cho thấy những cá nhân được xác định là nữ giới thường chịu nhiều trách nhiệm hơn đối với những quyết định này.
- Hạn chế tiếp cận dịch vụ xã hội: Ở các khu vực dân tộc thiểu số, việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội có thể giảm bớt gánh nặng CVCSKĐTC (ví dụ: chăm sóc trẻ em, chăm sóc người cao tuổi và dịch vụ giới thiệu việc làm) thường không đủ.
Khuyến nghị chính sách:
- Xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng: Cải thiện việc thu thập và sử dụng dữ liệu về CVCSKĐTC để thông báo và phát triển các chính sách hiệu quả hơn.
- Giải quyết các chuẩn mực xã hội: Thực hiện các sáng kiến để thách thức và chuyển đổi các chuẩn mực xã hội có hại đang duy trì sự phân bổ CVCSKĐTC không đồng đều.
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội: Tăng cường đầu tư và mở rộng sự sẵn có của cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội thiết yếu, như chăm sóc trẻ em, chăm sóc người cao tuổi và các chương trình hỗ trợ cộng đồng.
- Nâng cao an sinh xã hội và chính sách lao động: Tăng cường các chương trình an sinh xã hội và chính sách lao động để hỗ trợ tốt hơn cho những cá nhân tham gia CVCSKĐTC, thúc đẩy chia sẻ trách nhiệm công bằng và tạo điều kiện cho họ tham gia vào nền kinh tế chính thức.
Trong 10 năm qua, các nhà hoạch định chính sách kinh tế đã quan tâm nhiều hơn đáng kể đến công việc chăm sóc và việc nhà không được trả công (CVCSKĐTC). CVCSKĐTC có thể được định nghĩa là những dịch vụ trong gia đình do các thành viên trong hộ thực hiện để phục vụ trực tiếp các thành viên khác trong hộ mà vì lý do kỹ thuật vẫn chưa được tính toán đầy đủ trong thống kê việc làm và GDP. Các dịch vụ này bao gồm các công việc nhà thường nhật như nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ và vệ sinh hộ gia đình, các hoạt động chăm sóc trẻ em và người già, chăm lo sức khỏe cho thành viên hộ, các hoạt động giáo dục, đào tạo kỹ năng trong phạm vi gia đình. CVCSKĐTC ngày càng nhận được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà hoạch định chính sách kinh tế vì tác động ảnh hưởng đến sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo nghiên cứu tổng quan tài liệu, ở Việt Nam, gánh nặng CVCSKĐTC nặng nề và bất bình đẳng đối với phụ nữ đã cản trở nhiều phụ nữ trong độ tuổi lao động có được việc làm có trả lương và việc làm bền vững. Khi dân số Việt Nam già hóa¹, gánh nặng chăm sóc người cao tuổi không được trả công tăng lên, ảnh hưởng rất lớn đến phụ nữ. Trong khi đó, tình trạng già hóa dân số đòi hỏi phải tăng cường sự tham gia thị trường lao động của lao động nữ, gồm cả tăng số giờ làm việc và năng suất, để Việt Nam có thể tăng đáng kể GDP bình quân đầu người và đạt được tham vọng trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2025 và thu nhập cao vào năm 2045.
Tổng quan tài liệu cũng cho thấy các nghiên cứu trước đây chưa có đầy đủ dữ liệu có tính đại diện toàn quốc nói chung cũng như nhóm đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) nói riêng. Trong khi đó, khi cân nhắc giữa công việc có trả lương và công việc chăm sóc không được trả công, phụ nữ ở khu vực nơi có các dịch vụ chăm sóc phát triển hơn, đặc biệt là các khu đô thị lớn, gặp ít rào cản hơn so với phụ nữ ở các vùng DTTS. Bất bình đẳng theo giới và đối với DTTS vì thế đan xen, càng làm nới rộng khoảng cách lẫn nhau. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của một cuộc điều tra tập trung về vấn đề CVCSKĐTC đối với DTTS.