Tổng quan
Báo cáo “Mức độ đáp ứng giới của các công trình Cơ sở hạ tầng và mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với công việc chăm sóc không được trả công của phụ nữ: Góc nhìn từ vùng Tây Bắc Việt Nam“ là một nỗ lực hợp tác của CARE tại Việt Nam (CVN) và là một phần của dự án Nâng cao Năng lực Kinh tế của Phụ nữ tại Việt Nam (AWEEV) do Global Affairs Canada tài trợ. Nghiên cứu, được thực hiện vào tháng 11 năm 2021, nhằm đánh giá mức độ đáp ứng giới của các dự án hạ tầng nông thôn được triển khai trong khuôn khổ các Chương trình Mục tiêu Quốc gia (NTPs) giai đoạn 2016-2020, và tác động của chúng đối với công việc chăm sóc không lương (CVCSKĐTC). Đây là nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này tại Việt Nam.
Phạm vi công việc bao gồm một cuộc khảo sát được thực hiện với đại diện từ 236 hộ gia đình ở sáu xã dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh Hòa Bình, Hà Giang và Lai Châu. Mẫu khảo sát chủ yếu bao gồm các hộ gia đình mà người đứng đầu là người dân tộc thiểu số (94%), với một phần đáng kể là hộ nghèo (30%) hoặc cận nghèo (29,6%). Để làm phong phú thêm dữ liệu, 18 cuộc thảo luận nhóm tập trung (FGDs) cũng được tổ chức với 20 cán bộ xã và 90 cá nhân ở 12 thôn trong khu vực khảo sát
Nghiên cứu đã đo lường mức độ đáp ứng giới của hạ tầng bằng cách sử dụng các tiêu chí liên quan đến sự tham gia và lợi ích trong các giai đoạn lựa chọn, thiết kế, xây dựng, bảo trì, sửa chữa và sử dụng công trình. Các phát hiện làm nổi bật sự chênh lệch đáng kể giữa nhận thức về mức độ đáp ứng giới của các cán bộ xã và trải nghiệm thực tế của người dân địa phương.
Các phát hiện chính:
- Điểm đáp ứng giới thấp: Mức độ đáp ứng giới tổng thể của các công trình hạ tầng ở các xã khảo sát là thấp, chỉ đạt 34,4/100 điểm theo kết quả khảo sát hộ gia đình. Điều này trái ngược với đánh giá cao hơn của các cán bộ xã là 55,7 điểm.
- Chức năng so với tham gia: Trong khi chức năng của công trình hạ tầng nhận được điểm cao nhất (6,86/10), thì chất lượng tham gia của người dân địa phương vào các cuộc họp thôn để lựa chọn và đề xuất công trình lại thấp (2,31/10).
- Ảnh hưởng hạn chế trong việc ra quyết định: Các ưu tiên của người dân địa phương chỉ được xem xét ở mức độ trung bình trong việc lựa chọn công trình (4,53/10), và vai trò của họ trong việc phê duyệt và giám sát công trình gần như không tồn tại (0,7/10).
- Mối quan hệ nghịch với quy mô công trình: Các dự án hạ tầng quy mô nhỏ hơn có xu hướng đáp ứng giới hơn, chủ yếu vì chúng cho phép cộng đồng tham gia nhiều hơn vào việc lựa chọn, thiết kế và thường sử dụng lao động địa phương. Các dự án lớn hơn, thường do nhà thầu thực hiện, có ít sự tham gia của địa phương hơn.
- Quyền sở hữu cấp xã: Các dự án hạ tầng mà xã đóng vai trò chủ đầu tư có mức độ đáp ứng giới cao hơn so với các dự án do cấp cao hơn làm chủ đầu tư.
- Mức độ đáp ứng của công trình giao thông nông thôn: Hạ tầng giao thông nông thôn được cho là có mức độ đáp ứng giới cao nhất (41,4/100) do có sự tham gia lớn hơn của người dân địa phương vào quá trình xây dựng, thường theo cơ chế “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Các khuyến nghị chính sách:
- Tăng cường sự tham gia của địa phương: Nâng cao và cải thiện chất lượng sự tham gia của người dân địa phương, đặc biệt trong các giai đoạn lập kế hoạch, thiết kế và giám sát các dự án hạ tầng.
- Ưu tiên nhu cầu địa phương: Đảm bảo rằng các ưu tiên và nhu cầu của cộng đồng địa phương được xem xét một cách chân thực và tích hợp vào quá trình phát triển hạ tầng.
- Thúc đẩy triển khai dựa vào cộng đồng: Khuyến khích và hỗ trợ các cơ chế triển khai các dự án hạ tầng quy mô nhỏ dựa vào cộng đồng để tối đa hóa sự tham gia và lợi ích của địa phương.
- Tăng cường giám sát và trách nhiệm giải trình: Thực hiện các hướng dẫn và giám sát rõ ràng hơn để đảm bảo các dự án hạ tầng thực sự đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành viên cộng đồng, không chỉ những người có vai trò chính thức.
- Giải quyết sự chênh lệch trong các dự án lớn hơn: Phát triển các chiến lược để tăng cường sự tham gia của địa phương và đảm bảo lợi ích công bằng trong các dự án hạ tầng quy mô lớn hơn, vốn thường phụ thuộc vào các nhà thầu bên ngoài.
- Tập trung vào tác động toàn diện: Ngoài chức năng, đánh giá và cải thiện cách các dự án hạ tầng góp phần giảm gánh nặng công việc chăm sóc không lương và tăng cơ hội kinh tế cho tất cả các thành viên cộng đồng.
AWEEV – Báo cáo tóm tắt và khuyến nghị chính sách: Mức độ đáp ứng giới của các công trình CSHT và mối quan hệ giữa CSHT với gánh nặng công việc CSKĐTC của phụ nữ: góc nhìn từ vùng Tây Bắc Việt Nam
Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam (CVN) đang thực hiện Dự án Nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ dân tộc thiểu số tại Việt Nam (AWEEV). Dự án sẽ hướng tới 2.635 phụ nữ và nam giới dân tộc thiểu số (DTTS) ở chín xã, thị trấn gồm Tiên Nguyên, Xuân Minh, Yên Thành, Tân Bắc, Yên Bình và Tân Trịnh thuộc huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, và các xã Bản Bo, Bình Lư và Thèn Sin thuộc huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Dự án thúc đẩy các quyền kinh tế của phụ nữ DTTS và tăng cường sự tham gia của họ vào các công việc được trả lương, trả công thông qua việc nâng cao phúc lợi kinh tế của phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam bằng cách thúc đẩy các quyền kinh tế; tăng cường sự tham gia của họ vào các hoạt động kinh tế mang lại thu nhập; tăng cường tiếng nói và sự lãnh đạo của họ trong các quyết định liên quan đến các hoạt động sinh kế của hộ gia đình cũng như các hoạt động kinh doanh.
Một mục tiêu quan trọng nữa của dự án là góp phần giảm gánh nặng của phụ nữ đối với các công việc chăm sóc không được trả công (CVCSKĐTC). Để đạt được mục tiêu này, Dự án trước kết thực hiện một số hoạt động nghiên cứu để có thể hiểu một cách thấu đáo về CVCSKĐTC và ảnh hưởng của gánh nặng CVCSKĐTC đối với phụ nữ theo các khía cạnh như tiếp cận cơ sở hạ tầng, sử dụng dịch vụ công cộng, tham gia các công việc được trả công. Kết quả của hoạt động nghiên cứu này sẽ được sử dụng để xác định nội dung chi tiết cho các can thiệp của AWEEV tại địa bàn dự án. Đồng thời, các phát hiện và khuyến nghị của nghiên cứu cũng sẽ được chia sẻ rộng rãi để thúc đẩy vận động chính sách ở các cấp.